Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Tín dụng tăng thấp, lãi thuần ngân hàng vẫn cao
Đăng 29/08/2014 | 09:03 GMT+7  |  
Chỉ tiêu tín dụng nguy cơ không đạt, thu nhập lãi thuần của nhiều ngân hàng vẫn tăng trưởng tốt dù họ lý giải chênh lệch lãi suất huy động và cho vay hiện thấp kỷ lục.
 
Báo cáo tài chính 6 tháng đầu năm cho thấy chỉ số lãi thuần của phần lớn ngân hàng có xu hướng tăng cao so với cùng kỳ năm ngoái. Trong nhóm ngân hàng thương mại có vốn Nhà nước chi phối, BIDV dẫn đầu về mức độ gia tăng thu nhập lãi thuần, đạt hơn 7.600 tỷ đồng lãi thuần tính đến cuối tháng 6, tăng gần 16% so với cùng kỳ. Hai ông lớn còn lại là Vietcombank và Vietinbank cũng có mức tăng lần lượt 8,3% và 6,4%.
 
Với khối ngân hàng cổ phần, giá trị tuyệt đối về thu nhập lãi thuần nhỏ nhưng tỷ lệ gia tăng so với năm trước khá cao. Chẳng hạn TPBank, thu nhập lãi thuần 6 tháng đầu năm đạt hơn 450 tỷ đồng, tăng tới 114,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Ba nhà băng khác là ABBank, SHB và Techcombank cũng có mức tăng thu nhập lãi thuần lần lượt 17,6%, 16,6% và 12,9%. Ngoài ra, nhiều nhà băng khác cũng có sự gia tăng thu nhập lãi thuần ở mức tương đối.
 
 
hinhdl-jeg-3540-1409169971.gif
Bảng dữ liệu về tỷ lệ lãi cận biên và thu nhập thuần của các ngân hàng.
 
Thu nhập lãi thuần là khoản chênh lệch giữa chi phí trả lãi và thu nhập từ lãi. Vì vậy lãi thuần tăng cao trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng ở mức ì ạch khiến nhiều người chú ý. 7 tháng đầu năm, tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống chỉ đạt 3,68%, chưa bằng một phần ba chỉ tiêu cả năm. Ngân hàng Nhà nước lý giải tín dụng tăng chậm do sức hấp thụ vốn của nền kinh tế còn thấp, sản xuất kinh doanh chưa khởi sắc nên cầu về vốn cũng yếu.
 
Phó chủ tịch Ngân hàng Bưu điện Liên Việt (LienvietPostbank) Nguyễn Đức Hưởng cho rằng, lãi thuần của một số ngân hàng được tính tổng hợp từ nhiều nguồn chứ không phải chỉ riêng phần cho vay trong 6 tháng qua. "Chẳng hạn như những khoản nợ lãi của thời gian trước đây tồn đọng và giờ ngân hàng mới thu được, cũng là lý do giúp thu nhập lãi thuần tăng", ông nói.
 
Thêm vào đó, ông Hưởng nhận định, năm ngoái nhiều ngân hàng thậm chí chấp nhận biên lợi nhuận âm để cho vay khách hàng tốt, còn giờ thì có cao hơn chút đỉnh nên thu nhập lãi thuần 6 tháng đầu năm có phần nhỉnh hơn cùng kỳ năm ngoái là điều dễ hiểu.
 
Ngoài ra, theo lý giải của lãnh đạo cấp cao của một ngân hàng cổ phần, tỷ trọng chứng khoán đầu tư (phần lớn là trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc) đều tăng ở hầu hết các ngân hàng, cũng góp một phần vào bức tranh tăng thu nhập lãi thuần. Chẳng hạn như BIDV, 6 tháng đầu năm, ngân hàng này tăng đầu tư vào cả trái phiếu chính phủ và doanh nghiệp (tăng 27%, chiếm 16% tổng tài sản sinh lãi, tăng so với mức tỷ trọng tương đương năm 2013 là 14%).
 
"Tỷ trọng chứng khoán đầu tư cho phần trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc tại ngân hàng tôi cũng tăng lần lượt là 25% và 30% so với cùng kỳ và mang về khoản thu nhập lãi tương đối lớn", ông nói.
 
Một số người lại nhìn nhận kết quả khả quan về thu nhập lãi thuần cho thấy chênh lệch giữa lãi suất huy động và cho vay ở mức cao. Một chuyên gia phân tích, thời gian qua lãi suất huy động liên tục giảm, cộng với tài khoản tiền gửi thanh toán và trên thẻ ATM của khách hàng với lãi suất không kỳ hạn... giúp giá vốn huy động bình quân của các ngân hàng thấp, tầm hơn 6% nhưng các nhà băng vẫn cho vay cao 10-11% một năm.
 
"Như vậy, chênh lệch đầu ra - đầu vào của ngân hàng khá cao, trên 4%, trong khi năm ngoái lãi biên này tầm 3-3,5%. Điều này lý giải vì sao từ đầu năm đến nay tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng rất chậm (3,52%), nhưng ngân hàng vẫn thu lợi nhuận từ tín dụng cao", ông bình luận.
 
 
ngan-hang-1634-1409169971.jpg
Tỷ lệ lãi cận biên của nhiều ngân hàng đang có xu hướng giảm, cho thấy việc quản lý tài sản sinh lời chưa đạt hiệu suất cao. Ảnh: Anh Quân
 
Tuy nhiên, báo cáo tài chính của các ngân hàng 6 tháng qua cho thấy thước đo sinh lời thông qua hệ số NIM (tỷ lệ lãi cận biên) có xu hướng giảm đáng kể. NIM được xác định bằng tổng doanh thu từ lãi trừ tổng chi phí trả lãi (thu nhập lãi thuần) trên tổng tài sản có sinh lời bình quân. NIM giảm chứng tỏ rằng mức thu nhập lãi thuần của ngân hàng tuy có tăng lên nhưng vẫn chưa thực sự tương xứng với sự gia tăng của nguồn tài sản có sinh lời.
 
Hiện nay, trong số các ngân hàng đã công bố báo cáo tài chính quý II năm 2014, Sacombank có tỷ lệ NIM 6 tháng đầu năm cao nhất, với 2,33%, tuy nhiên, so với cùng kỳ thì lại giảm nhẹ 0,23%. Hay như TPBank, mặc dù thu nhập lãi thuần tăng vọt nhưng tỷ lệ lãi cận biên lại giảm 0,43%.
 
Ngân hàng Quốc Dân - NCB giảm NIM mạnh nhất, từ 1,56% xuống còn 1,08% do thu nhập lãi thuần không tăng bao nhiêu trong khi tài sản có khả năng sinh lời tăng đột biến.
 
Tiến sĩ Lê Đạt Chí, Trưởng bộ môn Đầu tư Tài chính, Trường Đại học Kinh tế TP HCM cho rằng, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên nói trên còn chưa phản ánh hết các chi phí hoạt động (trả lương nhân viên, khấu hao tài sản cố định…) cũng như chi phí dự phòng rủi ro của các ngân hàng.
 
Do đó, theo ông Chí, nhìn vào những con số báo cáo thấy thu nhập lãi thuần tăng so với cùng kỳ năm ngoái thì nghĩ rằng ngân hàng đang "ăn lãi dày" nhưng thực tế chưa hẳn vậy.
 
Ông Chí lấy ví dụ, trên danh nghĩa, lãi suất cho vay dao động 11% mỗi năm trừ đi lãi suất huy động phổ biến 7%, thì biên lợi nhuận của các ngân hàng là 4%. Với mức này có thể cho ra con số thu nhập lãi thuần khá cao. Tuy nhiên, biên lợi nhuận này không phải là chênh lệch lãi suất mà ngân hàng được hưởng toàn bộ vì nó còn bao gồm rất nhiều chi phí khác.
 
Thực tế, lãi cận biên tạo nên lợi nhuận ở nhiều ngân hàng chỉ duy trì được mức 1-2%. Ông phân tích, khi nhận về 4% chênh lệch lãi, ngân hàng phải có dự trữ bắt buộc với các khoản tiền gửi. Tiếp theo là dự phòng thanh khoản, các phần chi phí khác bao gồm trả cho bảo hiểm tiền gửi. Cộng tất cả lại khoảng 2%. Cộng thêm một số chi phí khác như trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu tiềm tàng khoảng 1% nữa là lên 3%. Như vậy, lãi cận biên thực tế của ngân hàng chỉ còn lại tầm 1%, ông phân tích.
 
"Chính vì vậy, nhìn vào kết quả kinh doanh của các ngân hàng 6 tháng đầu năm, thu nhập lãi thuần tăng nhưng thực tế lợi nhuận lại thấp là vậy", ông Chí nói.
 
Lãnh đạo cấp cao của một ngân hàng phía Nam cũng bộc bạch, với bối cảnh kinh tế ảm đạm, nợ xấu vẫn đang có dấu hiệu gia tăng thì trong hoạt động tín dụng, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra phải từ 4% trở lên mới đủ trích lập dự phòng rủi ro và kỳ vọng thu lợi nhuận.
 
Ông cũng tỏ ra lo ngại khi nhìn vào tỷ lệ NIM của nhiều ngân hàng đang có xu hướng thấp và bị thu hẹp, cho thấy lợi nhuận ngân hàng đang bị teo tóp. "Với tình hình hiện nay, ngân hàng tôi rất khó tránh được tình trạng điều chỉnh chỉ tiêu lợi nhuận vào quý cuối năm", ông nói.
 
Với thực tế trên, một thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính tiền tệ Quốc gia cho rằng, vấn đề lớn hiện nay chính là bài toán quản lý, kiểm soát tài sản có sinh lời của ngân hàng chưa hiệu quả, có thể do nhiều nguyên nhân. Về mặt chủ quan là do việc cho vay dễ dãi trước đó dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn lớn; còn về khách quan, kinh tế vĩ mô bất ổn, thị trường bất động sản đóng băng... khiến doanh nghiệp khó khăn, mất khả năng trả nợ.
 
Chính vì nợ xấu diễn biến phức tạp, buộc nhà băng phải tăng chi phí trích lập dự phòng và các chi phí quản lý khác. Để bù đắp cho các khoản chi phí này, ngân hàng không còn cách nào khác là vẫn duy trì chênh chệch lãi suất huy động và cho vay ở mức cao. Việc này khiến các ngân hàng chưa thể mạnh tay giảm lãi suất cho vay trong thời gian qua. Chỉ trừ vài doanh nghiệp tốt được vay lãi suất 7-8%, còn lại phần lớn khách hàng đều phải vay với mức 10%-12% một năm.
 
Theo chuyên gia này, trong thời gian tới, nếu các nhà băng tiết giảm được chi phí hoạt động, xử lý tốt nợ xấu và giảm trích lập dự phòng rủi ro, thì khả năng co hẹp thêm chênh lệch giữa đầu vào - đầu ra là có thể.
 
Hơn nữa, hiện chỉ số CPI tháng 8 vừa được công bố với mức tăng 0,22% so với tháng trước. Tính chung 8 tháng đầu năm 2014, CPI cả nước chỉ tăng 1,83%, trong khi lạm phát theo năm chỉ là 4,31%. Lãi suất huy động đã được các ngân hàng rậm rịch điều chỉnh giảm mấy tuần qua. "Với những điều kiện này, ngân hàng sẽ có room giảm tiếp lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế", ông kết luận.
 
Theo Vnexpress


Tiếp tục "thu hời" từ chứng khoán, ACB lãi trước thuế quý 1 gần 4,900 tỷ đồng

Doanh nghiệp  |   VietStock  |   11 giờ trước

BCTC hợp nhất vừa công bố của Ngân hàng TMCP Á Châu (HOSE: ACB) cho thấy lãi trước thuế trong quý 1/2024 đạt hơn 4,892 tỷ đồng, giảm nhẹ 5% so với cùng kỳ năm trước, do tăng gấp đôi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng dù lãi đột biến từ chứng khoán.

Chứng khoán phái sinh ngày 26/04/2024: Hiện tượng phân hóa đang diễn ra

Thị trường chứng khoán  |   VietStock  |   11 giờ trước

Các hợp đồng tương lai đồng loạt giảm điểm trong phiên giao dịch ngày 25/04/2024. VN30-Index tăng điểm nhẹ cùng với khối lượng giao dịch liên tục suy giảm và nằm dưới mức trung bình 20 phiên trong các phiên gần đây cho thấy tâm lý thận trọng của nhà đầu tư vẫn còn.

Một doanh nghiệp xi măng vẫn dự chia cổ tức cho cổ đông dù ngành đang gặp khó

Doanh nghiệp  |   VietStock  |   15 giờ trước

Trong bối cảnh ngành xi măng đang trong thời điểm khó khăn nhất, đặc biệt về khả năng tiêu thụ khi cung vượt cầu, CTCP Xi măng La Hiên VVMI (HNX: CLH) vẫn dự chia cổ tức bằng tiền còn lại năm 2023 cho cổ đông, thời gian thực hiện dự kiến vào ngày 16/05/2024.

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 4,530
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,600
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 21,300
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 54,400
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 46,150
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 34,000
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,700
BBC CTCP Bibica 50,000
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 17,250
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 109,000
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 16,150
CLC CTCP Cát Lợi 40,500
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 31,300
DHA CTCP Hóa An 42,950
DHG CTCP Dược Hậu Giang 113,700
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,100
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 66,700
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 29,700
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 20,900
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 49,000
FPT CTCP FPT 123,200
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 32,000
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 9,090
GMD CTCP Gemadept 81,400
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,670
HAS CTCP Hacisco 8,620
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 15,200
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 7,300
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 11,950
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 50,000
CAG CTCP Cảng An Giang 12,400
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 32,000
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 23,700
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 17,900
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 9,300
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 54,900
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 19,900
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 7,000
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 12,400
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 30,400
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 30,600
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 52,000
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 28,300
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 24,800
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 72,400
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 24,200
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 11,600
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,200
UNI CTCP Viễn Liên 9,000
VGP CTCP Cảng Rau Quả 24,200
VTC CTCP Viễn Thông VTC 8,500
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 26,800
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 11,000
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 8,100
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,400
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 35,900
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 6,700
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 23,000
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 23,900
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 35,800
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 14,500
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 11,000
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,400
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 29,300
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp