Bạn chưa có cổ phiếu theo dõi nào! Nhấn [+] để thêm.
Thêm mã
  • VN-Index 0.00 0 (0%)
  • HNX-Index 0.00 0 (0%)
  • UPCOM-Index 0.00 0 (0%)
Giải quyết nợ xấu, cần sự đồng thuận chính trị sâu rộng
Đăng 11/05/2013 | 15:19 GMT+7  |  
Điểm gặp nhau trong quan điểm của nhiều chuyên gia kinh tế là xử lý nợ xấu phức tạp nhất và là trọng tâm của chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, phục hồi tăng trưởng kinh tế.

TS. Lê Xuân Nghĩa, Chuyên gia kinh tế, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính tiền tệ quốc gia

Xử lý nợ xấu: Không nên coi là việc riêng của các ngân hàng

Việc kiên định điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu nhất quán, xuyên suốt là ổn định giá cả, chống lạm phát của Thống đốc NHNN hiện nay là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với bản chất hoạt động của ngân hàng trung ương là ổn định giá cả, ổn định lãi suất và đảm bảo an ninh tài chính. Chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát mục tiêu dù chỉ mới được thực hiện bước đầu, nhưng đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần đưa lạm phát từ 2 con số xuống dưới 8%, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và tái cơ cấu nền kinh tế. Đương nhiên, Thống đốc còn nhiều việc khác phải làm, đặc biệt là chương trình tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng vô cùng khó khăn. Dù sao tôi cũng thích cách điều hành minh bạch, rõ ràng, nhất quán, đối diện trực tiếp với vấn đề và có tầm nhìn chiến lược của Thống đốc, một đồng nghiệp đáng quý trọng.

Xử lý nợ xấu là vấn đề phức tạp nhất và là trọng tâm của chương trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và phục hồi tăng trưởng kinh tế. Có rất nhiều vấn đề đặt ra đối với việc xử lý nợ xấu, mà quan trọng nhất là nguồn lực tài chính rất lớn, cơ sở pháp lý để mua, bán nợ đặc thù, năng lực quản lý và gia tăng giá trị tài sản và đặc biệt là khả năng tiếp cận trở lại vốn ngân hàng của các DN đang hoạt động, nhưng có lịch sử tín dụng xấu. Đây là những vấn đề gây tranh cãi gay gắt ở hầu hết các nước và những quốc gia thành công là nhờ sự đồng thuận chính trị sâu rộng để giải quyết nhanh, dứt điểm nợ xấu, trái lại không đồng thuận, không giải quyết nhanh, dứt điểm sẽ thất bại. Vì vậy, ở Việt Nam vấn đề xử lý nợ xấu không nên coi là việc riêng của NHNN và hệ thống ngân hàng, mà cần coi là việc chung của của cả hệ thống chính trị, của các DN và các ngân hàng thương mại, hay nói cách khác là xử lý cho cả nền kinh tế.

Việc xử lý nợ xấu qua Công ty Mua bán nợ Quốc gia (VAMC) mà không dùng nguồn ngân sách nhà nước hay vay nợ bên ngoài chắc chỉ có đặc thù ở Việt Nam. Do đó, hệ thống ngân hàng một mặt tiếp tục củng cố vững chắc thanh khoản, mặt khác tiếp tục xử lý nợ xấu bằng các nguồn lực tự có như dự phòng rủi ro, tái cơ cấu lại nợ. Đồng thời, chuẩn bị ban hành để thực hiện hàng loạt các quy định như chuẩn mực quản trị DN, chuẩn mực an toàn và quản lý rủi ro, chuẩn mực kế toán và phân loại tài sản…

Tuy nhiên, nhìn chung, việc xử lý nợ xấu bằng công ty mua bán nợ tập trung, quy mô toàn diện (VAMC) khá chậm. Nguyên nhân chủ yếu là quá trình phê duyệt chủ trương và phê chuẩn đề án cũng như ban hành các quy định pháp lý kéo dài khá lâu. Việc xử lý nợ xấu càng chậm thì chi phí phải trả càng lớn, số lượng DN phá sản càng nhiều và tiến trình phục hồi kinh tế càng khó khăn.

Sameer Goyal, Chuyên gia tài chính cao cấp Ngân hàng Thế giới (WB)

Về dài hạn, cần có sự quan tâm đúng mức tới các thị trường vốn đang phát triển

Ngành ngân hàng Việt Nam đã phát triển nhanh chóng trong suốt thập kỷ qua và hỗ trợ cho sự tăng trưởng ấn tượng của Việt Nam trong thời gian đó. Tuy nhiên, cái giá của sự tăng trưởng tín dụng nhanh chóng là rủi ro cao hơn trong hệ thống do khung pháp lý và năng lực giám sát của NHNN còn yếu kém và hệ thống cũng như thông lệ quản lý rủi ro ở các NHTM còn non trẻ mặc dù đang phát triển tương đối. Hệ quả là hệ thống ngân hàng đã cho thấy những dấu hiệu căng thẳng trong vài năm qua. Việc trích lập dự phòng nhiều hơn cho các khoản nợ xấu tăng lên cũng như giảm các khoản thu đã tạo thêm các áp lực lên vốn và khả năng thực hiện tái cấu trúc của ngân hàng. Các tài sản như bất động sản, đầu tư chứng khoán, vàng… cũng có thể là những nguồn rủi ro khác. Các biện pháp được Chính phủ thực hiện đã có thể tạm thời giải quyết một số vấn đề nhưng vẫn còn nhiều việc phải làm để giải quyết các vấn đề thuộc về nền tảng cấu trúc.

Có các vấn đề cần chú ý ngay lập tức như tình trạng thanh khoản, tuy nhiên, giải quyết vấn đề đó không có nghĩa là vấn đề khó khăn nhất đã qua đi và chúng ta phải chuyển sang giải quyết các vấn đề ưu tiên khác. Chính phủ đang có những nỗ lực để thực hiện kế hoạch tái cơ cấu tổ chức tín dụng giai đoạn 2012-2015, nhưng tiến trình này còn chậm chạp. Do đó, mặc dù những áp lực lên ngành ngân hàng do vấn đề thanh khoản có thể tạm thời giảm nhẹ, cải cách vẫn cần phải được tiếp tục ở một nhịp độ mới để giải quyết các điểm yếu cơ bản và xây dựng một hệ thống ngân hàng lành mạnh.

Chính phủ đã đưa ra khuôn khổ thực hiện tái cấu trúc ngành ngân hàng tới năm 2015 tại Quyết định 254. Các vấn đề trước mắt cần được giải quyết nhanh chóng để đảm bảo chi phí toàn bộ cho việc tái cấu trúc được giảm tới mức tối thiểu. Trình tự và liên kết các biện pháp là rất quan trọng. Để xử lý vấn đề nợ xấu, thành lập Công ty quản lý tài sản tập trung chỉ là bước đầu tiên và thành công của nó còn phụ thuộc vào việc thiết kế nó ra sao. Hơn thế, để thực sự là một giải pháp hiệu quả, cần có khung pháp lý và quy định để hỗ trợ tái cấu trúc DN. Thêm vào đó, để tránh các vấn đề tương tự xảy ra trong tương lai, cần chú ý năng lực giám sát, cải thiện quản trị DN của các ngân hàng bao gồm tiếp cận các vấn đề liên quan tới tính liên kết giữa các tổ chức tài chính và DN. Nên khuyến khích tái cấp vốn ngân hàng để tạo nền tảng giải quyết các vấn đề tương tự trong tương lai. Từ trung hạn tới dài hạn, cần có sự quan tâm phù hợp tới phát triển thị trường vốn để giảm bớt áp lực hiện tại lên ngành ngân hàng nhằm hỗ trợ đầu tư và tăng trưởng

Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chính sách công, Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fullbright

Xử lý nợ xấu với doanh nghiệp nhà nước là vấn đề cốt lõi

Nợ xấu của ngân hàng hiện nay được tạo ra bởi 3 nhóm nguyên nhân: cho vay DN Nhà nước, bất động sản, nhóm cổ đông chiến lược của ngân hàng. Ngay từ đầu, việc cho vay không căn cứ vào tính khả thi của dự án, không tuân theo các tiêu chí thương mại nên dẫn đến nợ xấu. Tâm lý phổ biến thời gian qua của cả người vay và bên vay (ngân hàng) là chờ đợi sự can thiệp của Nhà nước vào việc xử lý nợ xấu, nên thách thức vẫn còn đó, vì các khoản nợ vẫn còn, chỉ là chuyển từ hạng mục này sang hạng mục kia. Hạng mục tài sản khác vẫn tiếp tục tăng lên trong báo cáo tài chính năm 2012, khoản cho vay theo quan hệ cũng rất khó xử lý nghĩa là nợ xấu vẫn chưa được giảm, vẫn chưa giải quyết được và ngày càng khó khăn hơn. Trong khi đó, định hướng chính sách xử lý nợ chưa rõ, vẫn treo đó các khoản nợ, nên ngân hàng không đòi được nợ từ DN Nhà nước. Nhà nước vẫn chưa làm gì và cũng chưa nhìn thấy nguồn lực thực sự xử lý các khoản nợ của DN Nhà nước.

Điều dễ thấy là khoản vay đặc biệt của các ngân hàng yếu kém, các cổ đông nỗ lực trả nợ, nếu không sẽ bị mất quyền kiểm soát ngân hàng. Ngay cả những ngân hàng yếu kém đã được tái cơ cấu để đảm bảo nhóm nhà đầu tư mới, vẫn phải chấp nhận sở hữu chéo.

Trong các thách thức của hệ thống ngân hàng hiện tại, cũng cần đặt ra vấn đề tăng trưởng chậm. Các ngân hàng do e ngại nợ xấu đang chọn cách co cụm lại, tăng trưởng chậm, dẫn tới tác động ngược lại làm việc giải quyết khó khăn nợ xấu khó khăn hơn. Nếu như trước đây, chỉ cần vài năm tăng trưởng là ngân hàng có thể giải quyết được nợ xấu, nhưng bây giờ không thể dùng theo hướng đó. Nền kinh tế vẫn trong vòng xoáy thoái nợ.

Xử lý nợ xấu liên quan đến DNNN là vấn đề cốt lõi để giải quyết nợ xấu trong nền kinh tế, là trách nhiệm Nhà nước phải làm và phải dùng nguồn lực Nhà nước gắn tái cơ cấu DNNN với tái cơ cấu ngân hàng. Nhà nước phải xem xét khả năng cổ phần hóa và bán các DN nắm giữ dưới 50% mà đầu tư trong và ngoài nước mua rồi lấy tiền đó làm nguồn lực để xử lý nợ xấu của DNNN. Nhà nước buộc phải chấp nhận đau thương, cắt bỏ những DN làm ăn không hiệu quả. Đồng thời, quyết liệt xử lý vấn đề sở hữu chéo. Còn với lĩnh vực bất động sản thì nên để thị trường tự điều chỉnh.

TS. Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế

Ngành ngân hàng có thể còn phải chịu những thách thức mới

Hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện đang đứng trước hàng loạt nhiệm vụ lớn: xử lý nợ xấu; cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và loại bỏ những ngân hàng yếu kém; nâng chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn tín dụng; chuyển dịch cơ cấu vốn cho DN, đang phụ thuộc quá nhiều vào ngân hàng, sang các kênh tài chính khác theo thông lệ quốc tế.

Mọi việc vẫn đang ngổn ngang phía trước với ngành ngân hàng. Ví dụ như để xử lý nợ xấu, cần phải có con số thống kê chính xác về nợ xấu của từng tổ chức tín dụng. VAMC có ra đời hay không ra đời, hoạt động như thế nào, dựa trên nguyên tắc nào? Tái cơ cấu đã được tiến hành, nhưng phải làm mạnh hơn nữa, để tiến tới trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, không còn những ngân hàng yếu kém, mất thanh khoản. Chất lượng và hiệu quả tín dụng nên tính toán thế nào? Bởi nhìn lại năm 1995, tổng tín dụng chỉ chiếm khoảng 20% GDP, nhưng đến năm 2012, tỷ lệ này là trên 100%, trong khi tăng trưởng kinh tế trồi sụt.

NHNN đã nhận ra những thách thức, nhưng nếu những thách thức đó không được giải quyết nhanh và đồng bộ, ngành ngân hàng sẽ còn gặp khó khăn lớn hơn. Trong thời gian tới, ngành ngân hàng có thể còn phải chịu những thách thức mới, bởi kinh tế thế giới cũng như trong nước còn tiếp tục biến động. Điều này đòi hỏi NHNN phải nhận diện và xâu chuỗi các biện pháp để đối phó với thách thức.

Ông Sanjay Kalra, Trưởng đại diện Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam

AMC không phải là bến đỗ cho các khoản nợ xấu ngân hàng

Năm 2012, Chính phủ Việt Nam đã thành công trong mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Lạm phát đã giảm từ hơn 20% trong tháng 8/2011 xuống một con số trong tháng 4/2013. Tỷ giá được ổn định đã góp phần làm giảm lạm phát, tăng niềm tin đối với tiền đồng. Đây là cơ sở để NHNN giảm các loại lãi suất, như lãi suất chính sách, lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Việc giảm lãi suất cho vay đã phần nào làm dịu bớt những vấn đề của hệ thống ngân hàng và DN. Đồng thời, những nỗ lực của NHNN trong việc cải thiện thanh khoản hệ thống ngân hàng nhìn chung là thành công, đặc biệt là so với bối cảnh khó khăn trong nửa cuối năm 2011.

Năm 2012 là một năm thách thức đối với hệ thống ngân hàng và nhiều khả năng những khó khăn đó sẽ tiếp tục trong năm 2013. Tăng trưởng kinh tế đã chậm hơn trong năm 2012 và nhiều DN, đặc biệt là DN vừa và nhỏ phải vật lộn để tồn tại. Cầu trong nước yếu và triển vọng kinh tế không chắc chắn đã ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cũng đã thận trọng hơn trong hoạt động cho vay. Điều này đáng được hoan nghênh so với việc cho vay dễ dàng trong những năm trước đó, nhưng cũng ngăn cản đà tăng trưởng tính dụng mặc dù thanh khoản không còn là vấn đề với hệ thống ngân hàng.

Có sự khác biệt về con số nợ xấu tính toán bởi các ngân hàng, NHNN và các thành viên tham gia thị trường. Các ngân hàng cần phải chấp nhận và NHNN phải kiên quyết yêu cầu các ngân hàng báo cáo mức nợ xấu thực của mình. Trong bối cảnh này, việc chuẩn bị thành lập Công ty quản lý tài sản quốc gia (AMC) là một bước đi đúng hướng. Nhưng hoạt động của công ty này phải góp phần giải quyết dứt điểm nợ xấu và không phải là bến đỗ cho các khoản nợ xấu của các ngân hàng. Việc giải quyết nợ xấu nhất thiết sẽ liên quan đến việc sử dụng các nguồn lực công, như kinh nghiệm cho thấy ở một số nước khác đã trải qua những vấn đề tương tự...

Những đợt sáp nhập các ngân hàng nhỏ, yếu kém với nhau trong thời gian 2011-2013 để củng cố hệ thống ngân hàng mới chỉ là bước khởi đầu. Các ngân hàng sáp nhập cần phải cải thiện hoạt động, quản trị và tăng vốn để có thể cải thiện lợi nhuận, củng cố bảng cân đối và đáp ứng tất cả các quy định về an toàn của NHNN. Bên cạnh các ngân hàng yếu kém, tỷ lệ nợ xấu và các vấn đề khác trong bảng cân đối cần phải được giải quyết một cách công khai, minh bạch và toàn diện tại các NHTM cổ phần và NHTM Nhà nước.

Hồng Dung ghi nhận - ĐTCK



Nâng dư nợ trái phiếu doanh nghiệp năm 2030 tối thiểu 25% GDP bằng cách nào?

Doanh nghiệp  |   VietStock  |   18 giờ trước

Mục tiêu đạt dư nợ trái phiếu doanh nghiệp năm 2030 đạt tối thiểu 25% GDP là vô cùng thách thức. Để thực hiện, cần có tiền đề là sự minh bạch thị trường và ba điều kiện liên quan đến thông tin về mức độ rủi ro, hệ thống tham chiếu và cơ cấu nhà đầu tư.

OSVP CTCP OSEVEN 17,000
2TCORP CTCP Kỹ thuật Công trình Việt Nam 22,000
AAAI CTCP Bảo hiểm AAA 7,900
AAFC CTCP Xây dựng và Kiến trúc AA 3,000
ABBANK Ngân hàng TMCP An Bình 14,220
F88 Công ty Cổ phần Kinh doanh F88 10,200
ABCI CTCP Liên Doanh Quốc Tế ABC 21,000
ABCG CTCP Truyền thông ABC 10,000
ABSC CTCP Chứng khoán An Bình 30,000
AVICON CTCP Công trình Hàng không 23,667
ACCCO CTCP Tư vấn Kiến trúc và Xây dựng Tp. Hồ Chí Minh 11,400
VIGECAM TCT Vật tư Nông nghiệp - CTCP 15,000
ACSVN CTCP ACS Việt Nam 15,000
ADCC CTCP Xây dựng Trang trí Kiến trúc ADC 17,000
AGRC CTCP Địa ốc An Giang 11,000
AESC CTCP XNK Nông sản và Thưc Phẩm Sài Gòn 45,000
AGRIMEXCM CTCP XNK Nông sản Thực phẩm Cà Mau 10,000
AGTC CTCP Du lịch An Giang - ANGIANG TOURIMEX 9,500
AGTEX28 Công ty 28 - AGTEX 12,500
VNAI CTCP Bảo hiểm Hàng không 9,200
AIRIMEX CTCP xuất nhập khẩu Hàng không 27,000
AIRSERCO CTCP Cung ứng Dịch vụ Hàng không 14,000
ALTC CTCP Âu Lạc 10,000
VNWIND CTCP Điện Cơ Thống Nhất 55,000
ALSIMEXCO CTCP Cung ứng & XNK Lao động Hàng không Việt Nam 15,000
UAMC CTCP Cơ khí ôtô Uông Bí 10,000
AMPHARCO CTCP Dược Phẩm Việt Nam - Ampharco 15,000
AMVI CTCP Sản xuất Kinh doanh Dược và Trang thiết bị Y tế Việt - Mỹ 18,000
APC1 CTCP An Phú 8,000
APLACO CTCP Nhựa cao cấp Hàng Không 14,500
SAPT CTCP Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn 12,000
FLCS CTCP Chứng khoán FLC 15,000
ARTEXPORT CTCP Xuất nhập khẩu Thủ công mỹ nghệ 50,000
ARTEXTL CTCP Xuất Nhập khẩu Mỹ Nghệ Thăng Long 9,000
ASAC CTCP Tơ tằm Á Châu 11,000
ASECO Công ty cổ phần 32 27,750
BAROTEX CTCP Thương mại và Đầu tư Barotex Việt Nam 15,000
BASEAFOOD CTCP Chế biến XNK Thủy Sản Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 11,000
BBCC CTCP Xây dựng và Sản xuất Vật liệu Xây dựng Biên Hòa 20,000
BBDC CTCP Bao bì Dược 15,000
BC14 Công ty cổ phần Cầu số 14 50,000
BCRES CTCP Thương mại và Địa ốc Bình Chánh 19,000
BD10 CTCP Bạch Đằng 10 30,000
RTDC CTCP Phát triển Phát thanh Truyền hình 14,500
BDHC CTCP Thủy điện Bình Điền 10,000
BESEACO CTCP Thủy sản Bến Tre 12,000
BFIC CTCP Đầu tư Tài chính BIDV 2,500
BIANFISHCO CTCP Thủy sản Bình An 5,000
BICONSI CTCP Xây dựng Tư vấn Đầu tư Bình Dương 12,000
BIGAMEX CTCP May Bình Minh 14,000
TLD CTCP Đầu tư Xây dựng và Phát triển Đô thị Thăng Long 5,130
PHALE CTCP Sản xuất và Công nghệ Nhựa Pha Lê 21,200
EMC1 CTCP Cơ Điện Thủ Đức 11,000
EVNLC CTCP Bất động sản Điện lực Miền Trung 7,000
FPTS CTCP Chứng khoán FPT 12,000
HABECO Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội 60,000
HDBANK Ngân hàng TMCP Phát triển TPHCM 36,083
HTC1 CTCP Xi Măng Hà Tiên 1 16,000
HTT CTCP Thương mại Hà Tây 1,600
NCTS CTCP Dịch vụ Hàng hóa Nội Bài 77,000
PCC1 CTCP Xây Lắp Điện I 30,000
NT2 CTCP Điện Lực Dầu Khí Nhơn Trạch 2 22,350
PYMEPHARCO CTCP Pymepharco 45,000
SAB Tổng CTCP Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn 58,100
SHJC CTCP Thủy Điện Sê San 4A 10,000
TANCANG CTCP Đại lý Giao nhận Vận tải Xếp dỡ Tân Cảng 41,000
TCB Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam 49,750
THI CTCP Thiết Bị Điện 29,000
TPBANK Ngân hàng TMCP Tiên Phong 33,000
TRAPHACO CTCP Traphaco 115,500
VCSC CTCP Chứng Khoán Bản Việt 60,000
VICOTEX TCT Việt Thắng - CTCP 30,000
VIETJET CTCP Hàng Không VIETJET 113,000
VNPD CTCP Phát triển Điện lực Việt Nam 13,000
VPBANK Ngân Hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng 43,000
ABT CTCP XNK Thủy Sản Bến Tre 35,000
AGF CTCP XNK Thủy Sản An Giang 2,500
BBC CTCP Bibica 49,500
BMC CTCP Khoáng Sản Bình Định 18,200
BMP CTCP Nhựa Bình Minh 112,800
CII CTCP ĐT Hạ Tầng Kỹ Thuật Tp.Hồ Chí Minh 17,500
CLC CTCP Cát Lợi 43,700
COM CTCP Vật Tư Xăng Dầu 32,750
DHA CTCP Hóa An 45,000
DHG CTCP Dược Hậu Giang 115,600
DIC CTCP Đầu Tư &Thương Mại DIC 1,200
DMC CTCP XNK Y Tế Domesco 65,500
DRC CTCP Cao Su Đà Nẵng 33,400
DTT CTCP Kỹ Nghệ Đô Thành 20,900
FMC CTCP Thực Phẩm Sao Ta 51,100
FPT CTCP FPT 134,500
GIL CTCP SXKD & XNK Bình Thạnh 35,300
GMC CTCP SX-TM May Sài Gòn 9,200
GMD CTCP Gemadept 84,800
HAP CTCP Tập Đoàn Hapaco 4,770
HAS CTCP Hacisco 9,300
HAX CTCP Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh 15,800
HBC CTCP Tập đoàn Xây dựng Hòa Bình 7,570
HMC CTCP Kim Khí Tp.HCM - Vnsteel 11,750
HRC CTCP Cao Su Hòa Bình 47,000
CAG CTCP Cảng An Giang 9,300
BLSEAFOOD CTCP Thủy sản Bạc Liêu 3,900
HPPO CTCP Cảng Hải Phòng 15,000
VVMI CTCP Xi Măng La Hiên VVMI 7,500
MAS CTCP Dịch Vụ Hàng Không Sân Bay Đà Nẵng 32,800
MASECO CTCP Dịch Vụ Phú Nhuận 23,000
NDF CTCP Chế Biến Thực Phẩm Nông Sản XK Nam Định 900
NIFERCO CTCP Phân Lân Ninh Bình 20,000
PLI3 CTCP Xây Lắp III Petrolimex 14,000
PC3I CTCP Đầu tư Điện lực 3 15,000
PVB CTCP Bọc Ống Dầu Khí Việt Nam 30,500
SDMC CTCP Thanh Hoa - Sông Đà 15,000
SHAL CTCP Nhôm Sông Hồng 12,000
VCIE CTCP Xuất Nhập Khẩu Than - Vinacomin 35,000
TNC1 CTCP Thống Nhất 13,500
TTCO CTCP Du Lịch - Thương Mại Tây Ninh 11,000
VITHAICO CTCP Dây Cáp Điện Việt Thái 10,800
VMJC CTCP Chế Tạo Máy - Vinacomin 12,000
VMDCO CTCP Phát Triển Hàng Hải 7,900
VNCT CTCP Kinh Doanh Than Miền Bắc - Vinacomin 24,329
VNPE3 CTCP Dược Phẩm Trung Ương 3 21,000
VOSA CTCP Đại lý Hàng hải Việt Nam 11,000
VTFI CTCP Thương Mại & Đầu Tư VINATABA 10,000
WSC CTCP Bến Xe Miền Tây 24,538
ALT CTCP Văn Hóa Tân Bình 15,900
BPC CTCP Vicem Bao Bì Bỉm Sơn 9,200
CAN CTCP Đồ Hộp Hạ Long 41,800
DNP CTCP Nhựa Đồng Nai 21,000
DPC CTCP Nhựa Đà Nẵng 6,700
DXP CTCP Cảng Đoạn Xá 12,800
NHC CTCP Gạch Ngói Nhị Hiệp 33,000
PMS CTCP Cơ Khí Xăng Dầu 32,500
SAF CTCP Lương Thực Thực Phẩm Safoco 50,000
SDN CTCP Sơn Đồng Nai 30,000
SFN CTCP Dệt Lưới Sài Gòn 21,700
SGC CTCP Xuất Nhập Khẩu Sa Giang 81,500
SGH CTCP Khách Sạn Sài Gòn 26,600
SJ1 CTCP Nông Nghiệp Hùng Hậu 11,800
TMC CTCP Thương Mại XNK Thủ Đức 9,300
UNI CTCP Viễn Liên 9,000
VGP CTCP Cảng Rau Quả 24,500
VTC CTCP Viễn Thông VTC 9,100
ACB Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Á Châu 28,250
BBS CTCP VICEM Bao Bì Bút Sơn 11,000
BCC CTCP Xi Măng Bỉm Sơn 8,200
BTS CTCP Xi Măng Vicem Bút Sơn 5,600
BVS CTCP Chứng Khoán Bảo Việt 40,000
CJC CTCP Cơ Điện Miền Trung 25,800
CMC CTCP Đầu Tư CMC 6,600
CTB CTCP Chế tạo Bơm Hải Dương 21,900
ABI CTCP BH NH Nông Nghiệp Việt Nam 23,600
ACE CTCP Bê Tông Ly Tâm An Giang 35,600
ACSC CTCP Xây Lắp Thương Mại 2 24,000
SAFE CTCP Thực Phẩm Nông Sản Xuất Khẩu Sài Gòn 25,000
APFCO CTCP Nông Sản Thực Phẩm Quảng Ngãi 63,000
IHK CTCP In Hàng Không 14,800
BMJ CTCP Khoáng Sản Becamex 10,200
BC12 CTCP Cầu 12 11,000
BELCO CTCP Điện Tử Biên Hòa 12,500
BHHC CTCP Thủy điện Bắc Hà 10,457
BIDIPHAR CTCP Dược - Trang Thiết Bị Y Tế Bình Định 37,000
BLIC Tổng CTCP Bảo hiểm Bảo Long 4,000
BTTS CTCP Dịch Vụ Du Lịch Bến Thành 8,000
UDJ CTCP Phát triển Đô thị 9,700
BWACO CTCP Cấp nước Bà Rịa - Vũng Tàu 9,000
CFC CTCP Cafico Việt Nam 9,100
CAGIPHARM CTCP Dược Phẩm Cần Giờ 2,000
CAWASCO CTCP Cấp Thoát Nước Cần Thơ 8,500
CBSC CTCP Gang Thép Cao Bằng 25,000
CCIC CTCP Tư vấn và Đầu tư Xây dựng CCIC Hà Nội 8,500
CCHP CTCP Cảng Cửa Cấm Hải Phòng 8,500
CDJC CTCP Cầu Đuống 7,500
CECO CTCP Thiết Kế Công Nghiệp Hóa chất 10,500
CIEG CTCP Tập Đoàn Xây Dựng Và Thiết Bị Công Nghiệp 13,500
CHOLIMEX CTCP Xuất nhập khẩu và Đầu tư Chợ Lớn (CHOLIMEX) 10,500
CLMF CTCP Thực Phẩm Cholimex 20,000
CIPC CTCP Xây lắp và Sản xuất Công nghiệp 12,500
CLPI CTCP Đầu tư Cảng Cái Lân 13,000
COMA TCT Cơ khí Xây dựng - CTCP 10,500
COMIFOOD CTCP Lương Thực Thực Phẩm Colusa - Miliket 19,000
CONINCO CTCP Tư vấn Công nghệ Thiết Bị & Kiểm Định XD - Coninco 12,500
CPH CTCP Phục vụ Mai táng Hải Phòng 300
CPTP CTCP Nhiệt điện Cẩm Phả - TKV 10,000
CT3 CTCP ĐT & XD Công Trình 3 7,300
THR CTCP Đường sắt Thuận Hải 41,700
DPHC CTCP Đạt Phương 15,000
DBHP CTCP Thủy điện Định Bình 35,000
DECOFI CTCP Xây Dựng và Thiết Kế Số 1 8,500
DIC1 CTCP Đầu Tư Phát Triển Xây Dựng Số 1 10,500
DICTT CTCP Du Lịch & Thương Mại DIC 15,000
DBM CTCP Dược - Vật Tư Y Tế Đăk Lăk 24,100
DNMB CTCP Đầu Tư Xây Dựng & Vật Liệu Đồng Nai 10,000
DOPETCO CTCP Vận Tải Xăng Dầu Đồng Tháp 12,500
DVSG CTCP Kính Viglacera Đáp Cầu 12,000
EMEC CTCP Điện Cơ 12,000
EMMC CTCP Cơ Điện Vật Tư 11,500
FISHIPCO CTCP Cơ Khí Đóng Tàu Thủy Sản Việt Nam 12,500
FOOCOSA CTCP Lương thực Thành phố Hồ Chí Minh 12,667
FORIPHARM CTCP Dược Trung ương 3 19,000
FPTOL CTCP Dịch vụ Trực tuyến FPT 105,000
Xem thêm...
  • Địa chỉ: Số 6 Nguyễn Công Hoan, Ba Đình, Hà Nội.
  • Điện thoại: (+84) 24 66873314
  • Email: contact@sanotc.com
Follow VinaCorp
Đã được cấp giấy phép thiết lập trang thông tin điện tử tổng hợp số 1472/ GP - TTĐT Ghi rõ nguồn "VinaCorp" khi phát hành lại thông tin từ kênh thông tin này.
© Copyright 2008-2024 VINACORP.VN. All Rights Reserved - OTC Vietnam Corp