Quá trình hình thành thị trường quyền chọn
Vào đầu những năm 1900, hiệp hội những nhà môi giới và kinh doanh quyền chọn (option) ra đời. Nhà đầu tư muốn mua quyền chọn sẽ liên hệ với một công ty thành viên, công ty này sẽ tìm người bán quyền chọn từ khách hàng của công ty hoặc của các công ty thành viên khác. Nếu không có người bán, công ty đó sẽ tự phát hành quyền chọn với giá cả thích hợp. Thị trường hoạt động theo cách này gọi là thị trường phi tập trung OTC (over-the-counter), các nhà kinh doanh không gặp nhau trên sàn giao dịch.
Việc mua bán quyền chọn trở nên phổ biến đầu tiên ở Chicago Board of Options Exchange. Vào thời kỳ đó chủ yếu trao đổi các cổ phiếu thương mại đơn lẻ. Năm 1982, quyền chọn bắt đầu giao dịch trên các hợp đồng tương lai với trái phiếu chính phủ, và loại giao dịch này phát triển rất nhanh. Giao dịch trên thị trường đấu giá mở, việc mua bán quyền chọn cung cấp rất nhiều công cụ để đầu cơ và phòng hộ giá cho cộng đồng thương mại. Sự thành công của hợp đồng quyền chọn đã mở lối cho việc ra đời quyền chọn trên vô số các hàng hoá tiêu dùng, như ngô, đậu nành và các sản phẩm khác.
Khi xã hội ngày càng phát triển, giao dịch quyền chọn ngày càng trở nên phổ biến hơn, lan rộng sang Anh, Brazil, Đức, Pháp, Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông và Australia. Việc toàn cầu hoá thị trường thế giới đã tạo ra nhu cầu liên kết điện tử và thương mại 24/24 trong ngày. Thị trường Mỹ đã đáp ứng nhu cầu này bằng cách tạo ra những sản phẩm giao dịch quốc tế, mở rộng giờ giao dịch và triển khai một sàn giao dịch điện tử.
Những hệ thống đáng chú ý nhất là GLOBEX (được CME phát triển) và Project A (được CBOT) phát triển. Ở Đức, Deutsche Terminborse Exchange đã bỏ kiểu giao dịch đấu giá mở, thay vào đó vận hành sàn giao dịch điện tử. Trên hệ thống GLOBEX, các nhà đầu tư cá thể có thể giao dịch dựa trên chỉ số SP500, SP500 mini và NASDAQ 100 và các hợp đồng con. Các nhà đầu tư cá thể cũng có thể mua bán ngoại hối trên GLOBEX.
Trên hệ thống Project A (hiện tại là hệ thống Eurex (Tháng 8/2000, CBOT xây dựng Eurex, tất cả các giao dịch trên Project A đều được thực hiện tại Eurex)), các nhà đầu tư cá thể có thể mua bán trái phiếu T-bonds và tín phiếu, quyền chọn, và tất cả các sản phẩm ngũ cốc trên CBOT. Giao dịch điện tử được thiết kế để hỗ trợ việc đấu giá mở ngoài giờ giao dịch chính thức.
Một số khái niệm
Quyền chọn. Một quyền chọn là một phương tiện đầu tư cho phép người mua quyền chọn này có quyền, nhưng không bị bắt buộc phải, bán hoặc mua một tài sản nào.
Quyền chọn mua (call opiton). Người sở hữu một quyền chọn mua có quyền mua một tài sản, tại một mức giá nhất định, vào một thời điểm nhất định.
Quyền chọn bán (put option). Người sở hữu một quyền chọn bán có quyền bán một tài sản, tại một mức giá nhất định, vào một thời điểm nhất định.
Giá thực hiện (strike price). Giá thực hiện còn được gọi là giá điểm là mức giá tại đó tài sản trong một quyền chọn có thể được mua hoặc bán.
Tài sản cơ sở (underlying asset). Là loại tài sản sẽ được giao trên cơ sở mua hoặc bán khi quyền chọn được thực hiện.
In-the-Money.
(*) Quyền chọn mua
. Một quyền chọn mua được gọi là in-the-money khi giá tài sản cơ sở cao hơn giá thực hiện.
(*) Quyền chọn bán. Một quyền chọn bán được gọi là in-the-money khi giá tài sản cơ sở thấp hơn giá thực hiện.
Out-of-the-Money
(*) Quyền chọn mua.
Một quyền chọn mua là out-of-the-money nếu giá tài sản cơ sở hiện tại thấp hơn giá thực hiện.
(*) Quyền chọn bán. Một quyền chọn mua là out-of-the-money nếu giá tài sản cơ sở hiện tại cao hơn giá thực hiện.
Quyền chọn kiểu Châu Âu. Quyền chọn kiểu Châu Âu là quyền chọn được thực hiện vào cuối kỳ hạn.
Quyền chọn kiểu Mỹ. Quyền chọn kiểu Mỹ là quyền chọn có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào trước khi đáo hạn. Quyền chọn này có tính linh động hơn so với quyền chọn kiểu Châu Âu.
Thế trường vị (long position). Là vị thế khi nhà đầu tư mua tài sản, ở đây là mua một quyền chọn trên tài sản do dự báo rằng giá tài sản sẽ tăng phiếu tăng.
Thế đoản vị (short position). Nhìn chung vị thế của nhà đầu tư khi bán một tài sản mà người đó không sở hữu. Vị thế này trái ngược với thế trường vị.
|
Phát triển các sản phẩm quyền chọn là một trong những nội dung của chương trình nghiên cứu và ứng dụng toán học trong kinh doanh chứng khoán tại Agriseco được triển khai từ năm 2005 |
Đặc trưng của quyền chọn trên cổ phiếu
Các yếu tố ảnh hưởng đến giá quyền chọn cổ phiếu
Có 6 yếu tố tác động đến giá quyền chọn cổ phiếu:
1. Giá cổ phiếu ở thời điểm hiện tại;
2. Giá thực hiện;
3. Khoảng thời gian từ thời điểm hiện tại cho đến khi đáo hạn quyền;
4. Độ bất ổn của giá cổ phiếu;
5. Lãi suất phi rủi ro;
6. Cổ tức kỳ vọng sẽ thanh toán trong khoảng thời gian quyền có hiệu lực;
Báo cáo sẽ tiến hành phân tích tác động tới giá quyền chọn khi thay đổi mỗi yếu tố kể trên trong điều kiện các yếu tố còn lại không đổi. Kết quả chung được trình bày ở bảng sau.